TRINH THỬ – 貞鼠

Trinh thử – 貞鼠
của Hồ Huyền Quy

Trinh thử nghĩa là con chuột có lòng trinh tiết. Đây là một câu chuyện ngụ ngôn: tác giả mượn chuyện của loài chuột để tán dương lòng trinh tiết và chỉ trích lòng dâm tà của người đời. Cũng có ý kiến cho rằng Hồ Huyền Quy mượn chuyện con chuột để châm biếm Hồ Quý Ly và hoàn cảnh chính trị đương thời.

Mục lục

I. Chuột đực quyến rũ chuột bạch, chuột bạch cự tuyệt
II. Chuột cái về, nổi ghen, rầy rà chuột đực và sinh sự với chuột bạch
III. Hồ sinh cứu vớt và khuyên nhủ chuột cái

I. Chuột đực quyến rũ chuột bạch, chuột bạch cự tuyệt

Vừa năm Long Khánh đời Trần,
Muôn phương triều cống mười phân thái bình.
Ngụ miền Lộc đỗng cảnh thanh,
Là Hồ sinh vốn thiện danh đang thì.
Nhiều bề cách vật trí tri,
Tiếng muông chim lại hay suy nên lời.
Kinh thành nhân thủa ra chơi,
Lý lê thủ tướng gần nơi ngụ nhà.
Canh ba thánh thót đồng hồ,
10Lạ nhà chưa ngủ hồ đồ xiết bao.
Bỗng nghe bên cỗi bích đào,
Tiếng con muông sủa bào hao dậy dàng.
Chẳng là chuột bạch bên tường,
Cong đuôi mà chạy vội vàng hãi kinh.
Cửa hang sẵn ở góc thành,
Chạy ngang vào đấy ẩn mình một khi.
Mất mồi muông lại chạy đi,
Trong hang dường tiếng nam nhi hỏi rằng:
“Uẩy ai quen thuộc chưa tường !
20Đêm khuya đương đột vì chưng cớ nào ?”
Hồ sinh thấy sự lạ sao,
Đến bên tường, ghé mắt vào dòm chơi.
Thấy con chuột đực nằm dài,
Lời ăn tiếng nói như người chưa khôn.
Đương khi nói ngọt, nói ngon,
Bây giờ Chuột bạch còn run như cầy.
Một giây tỉnh lại mới hay :
Vì chưng lỡ bước biết đây chốn nào.
Tới lui khôn biết làm sao,
30Khác nào như thể cáy vào hang cua.
Dám bày nông nỗi trình thưa,
Rằng: “Tôi nhà cũng quanh co miền này.
Quá chân lạc lối tới đây,
Chẳng may bỗng gặp muông cầy bất nhân.
Phúc sao mà cũng mau chân,
Chạy vào lại được gửi thân chốn này.
Rộng cho nương náu ở đây,
Được qua nạn ấy ơn dày dám vong.”
Lời ăn tiếng nói thong dong,
40Chàng nghe cũng động tấm lòng nước mây.
Rằng: “Sao cả quyết tới đây,
Nào chồng con ở đâu, nay làm gì ?
Một mình khuya khoắt ra đi,
Dường như giống vạc, cớ gì ăn đêm ?
Hay là nhắn cá, gửi chim,
Đêm xuân đón gió đi tìm mùi hương ?
Rằng ta rộng rãi lòng thương,
Phỏng như gặp kẻ phũ phàng thì sao.”
Nàng nghe chàng nói thấp cao,
50Nỗi mình mới kể tiêu hao xa gần:
“Thiếp nay ở mãi Đông lân,
Vì cơ thương cẩu lang quân tếch ngàn.
Mối lòng khôn xiết thở than,
Thương chồng lại xót một đàn con thơ.
Rồng rồng theo nạ sớm trưa,
Của đâu cho được dư thừa miếng ăn.
Pha phôi chẳng quản nhọc nhằn,
Chân le chân vịt nào phân đêm ngày.
Nghe quan thủ tướng bên này,
60Cửa nhà tráng lệ, của dày bằng non.
Muốn ăn hét phải đào giun,
Pha bờ xông bụi nào còn biết e.
Đêm hôm cũng dấn mình đi,
Sang đây kiếm ít đem về làm lưng.
Ai ngờ gặp đứa gió trăng,
Cho nên khuất nẻo lạc chừng khốn thay !”
Chàng nghe nông nỗi giãi bày,
Quyết lòng cầm sắt một hai dỗ dành.
Rằng: “Nàng giải hết chân tình,
70Thương thay phận gái một mình long đong.
Đã hay trong đạo vợ chồng,
Nghĩa sâu tình nặng há lòng chẳng thương.
Kinh quyền đôi lẽ là thường,
Được nơi tựa ngọc nương vàng thì thôi.
Chẳng lo mẹ góa con côi,
Sớm khuya loan phượng no đôi dường nào.
Chẳng lo liễu cợt hoa chào,
Bướm gìn ong giữ làm sao cho tuyền.
Vả nàng là gái thuyền quyên,
80Phỏng khi gặp kẻ vô duyên khôn dè.
Ví mà dốc tấm lòng quì,
Giữ sao cho được trọn bề hướng dương.”
Nàng nghe ăn nói sỗ sàng,
Muôn sầu tầm tã, hai hàng chứa chan.
Cúi đầu thưa nói khoan khoan :
“Thiếp như phận liễu gặp cơn gió đoài.
Đã thương mới dám ngỏ lời,
Nhớ trong thanh sử hôm mai ghi lòng.
Chữ rằng tòng nhất nhi chung
90Gái hiền thờ chỉ một chồng chẳng hai.
Cương thường đạo cả há chơi,
Một niềm hằng giữ, mấy lời đinh ninh.
Vả nay bóng đã xế mành,
Dám đâu còn lại gieo mình nữa nao.
Mặc ai ong bướm xôn xao,
Mười phần cũng chẳng chuyển dao một phần.
Hạ qua dám ước lại xuân,
Dễ hầu gà luộc mấy lần nữa sao ?
Phận đành cho ả họ Tào,
100Mong sân hòe được thanh tao là mừng.
Bây giờ sẩy bước lỡ chừng,
Tôi đây đã đội ơn chưng lòng chàng.
Đoái tương thân phận lỡ làng,
Dạy đường phương tiện lòng càng cám ơn.
Tóc tơ giải hết nguồn cơn,
Quyết liều chịu tốt thờn bơn một bề.
Vu qui núi chỉ non thề,
Tấc lòng đá tạc vàng ghi dám rời.
Ở đời kiên ngạnh với đời,
110Kẻo e oanh yến những lời khen chê !
Chàng rằng: “Nàng vẫn chấp mê,
Chẳng hay lo trước ắt thì lụy sau.
Hãy suy cho thấu cơ mầu,
Trong khi tụy hoán dễ hầu một ai.
Chữ rằng: ‘xuân bất tái lai’,
Một ngày là mấy sớm mai hỡi nàng !
Tới lui đôi lẽ cho tường,
Tính bề xử biến hơn đường kiên trinh.
Kết làm phu phụ chi tình,
120Chẳng lo thuyền bách lênh đênh giữa nguồn.
Lòng xuân tưởng đến cũng buồn,
Chẳng nghe câu ví phương ngôn thường lề:
“Chơi xuân kẻo hết xuân đi,
Cái già sồng sộc nó thì theo sau”.
Ngựa qua cửa sổ bao lâu,
Kiếp toan kiếm chốn bán sầu mua vui.
Hoa tàn nhị rữa thì thôi,
Bấy giờ ai kẻ còn lời tóc tơ.
Một mình giữ đống con thơ,
130Dễ ai lo lắng sớm trưa với nàng.
Có khi biến, có khi thường,
Suy điều cùng chiếu cùng giường vầy vui.
Song song như đũa có đôi,
Ấm no cùng thỏa, ngọt bùi cùng ăn.
Bằng khi vò võ nửa chăn,
Canh khuya trằn trọc băn khoăn vui gì.
Được chăng một tiếng tiết nghì,
Bắc đồng cân thử xem bề nào hơn.
Xưa nay mấy kẻ hồng nhan,
140Gan vàng dạ ngọc cơ hàn được đâu.
Như người phú các thư lâu,
Lòng son dạ sắt mình đâu dám bì !”
Nàng rằng: “Phận gái vụng về,
Đắn đo chút cũng thấu bề phải chăng.
Vợ chồng đạo cả lẽ hằng,
Tạo đoan lẽ ấy há rằng phải chơi.
Kể từ thủa mới thiên khai,
Nằm hang ở nội chưa ai biết gì.
Cũng còn có lễ lệ bì,
150Chê loài cẩu hợp răn bề dâm bôn.
Phu thê phong hóa chi nguyên,
Sự vong như thể sự tồn kẻo quê.
Trời đâu phụ kẻ tiết nghì,
Lân kinh, Mao giản tạc ghi còn truyền.
Đời xưa mấy gái tiết hiền,
Chẳng nên giống nọ, thì nên giống này.
Mấy người tính nước, lòng mây,
Sớm đưa gã Lý, tối vầy chàng Trương.
Sử xanh còn chép rõ ràng,
160Lòng này đâu dám ra tuồng như xưa.
Kẻ chồng còn đó trơ trơ,
Cùng người khác đã đợi chờ tình chung.
Kẻ thời mới khuất mặt chồng,
Chưa xanh ngọn cỏ, cải dong, biến nghì.
Những loài ấy kể làm chi,
Rành rành bia miệng còn ghi đến rày.”
Chàng nghe lại nói lời này:
“Nàng tuy biết một chưa hay biết mười.
Đã là tai mắt ở đời,
170Cứ mình, chớ bắt chước người vụ danh.
Ở trong thế sự vẫn thanh,
Hễ mà miễn được ích mình thời thôi.
Ví dù bắt chước như ai,
Nói màu trinh tiết, ở loài bôn ba.
Hán thời Lã hậu ai qua,
Sớm khuya cửa tía, vào ra nhà vàng.
Từ khi khuất mặt Hán hoàng,
Mà lòng tư túi với chàng Tự Cơ.
Ả Hồ dương nọ chẳng vừa,
180Cớ gì mà lại toan thờ Tống công.
Kìa như Vũ hậu cũng nồng,
Mày ngài được sánh bệ rồng mấy phen.
Vua Đường thoắt mới xe tiên,
Rủ rèm trong đã có nguyền riêng tây.
Họ Trương đôi gã đẹp thay,
Hứa Tam tư lại chuyền tay mận đào.
Điêu Thuyền há chính chuyên nào,
Khi ra Lã Bố khi vào Đổng công.
Gặp ai thời nấy là chồng,
190Cõi đời đâu đấy đều cùng cười chê.
Thử coi lấy đấy mà suy,
Người thiêng hơn vật nào nghì ở đâu.
Người thời đắc thế sang giàu,
Còn cầu thích ý còn cầu hưu danh.
Huống chi vật mọn quần sinh,
Giữ sao vẹn chữ tiết trinh mà bì.”
Gót đầu nàng lặng ngồi nghe,
Lâu lâu lại ngoảnh mặt đi thở dài.
Chàng nghĩ đàn đã êm tai.
200Kể đường lợi hại nói chơi xa gần.
Rằng: “Thương nàng chửa yên thân,
Ở nơi đình chủ đông lân bây giờ.
Khó khăn nhà xác như vờ,
Nước sông gạo chợ, củi mua củi đồng.
Thịt chẳng có, cá thời không,
Chốn nằm chẳng có màn mùng che thân.
Gà về bới nát cỏ sân,
Mèo buồn lại chạy kiếm ăn ngõ ngoài.
Chó nằm hè gậm vỏ khoai,
210Lợn ngồi dũi đất ngậm hơi gầy gò.
Vật nuôi còn chửa được no,
Của đâu thừa thãi để cho đến nàng.
Vả hay tiếc của giữ giàng,
Giang san một nắm lại càng dấu dung.
Vắt chày ra nước ròng ròng,
Miếng ăn đè cột chớ hòng mon men.
Hứng tay dưới, vắt tay trên,
Rán sành ra mỡ bon chen từng điều.
Treo cổ chó, buộc cổ mèo,
220Bình dưa lọ muối chắt chiu nom dòm.
Vặt đầu cá, vá đầu tôm,
Liệu thưng bữa sớm bữa hôm ít nhiều.
Hạt rơi hạt rụng bao nhiêu,
Chậu bồn úp lại, ai đào chẳng ra.
Thấy nàng lòng dạ xót xa,
Châu chan sầu tủi nghĩ hòa thương cho.
Anh nay nhờ phận ấm no,
Tổ nhân thiên táng, huyệt do mối đùn.
Hợi long nhập thủ chuyển khôn,
230Bao nhiêu hổ thủy cũng tuôn nhập đoài.
Rày chen vượng tướng hào tài,
Đông phương tị ngọ mấy đời đến nay.
Vả xem cây lộc tốt thay,
Quí nhân phù trợ tài này làm nên.
Lại xem tiền định chẳng hèn,
Mười thầy cũng nói như in một lời.
Số tử vi đã giãi bày,
Tham lang thủ mệnh ắt rày vượng thay.
Vậy nên gặp cửa người đây,
240Ngôi cao nhất phẩm, lộc dày thiên chung.
Tòa ngang dãy dọc trùng trùng,
Tả lâu hoa tạ, hữu cung ngọc đường.
Của thời núi bạc non vàng,
Thóc Chu, lúa Hán kho tàng xiết đâu.
Thạch Sùng tắc lưỡi lắc đầu,
Nhân sinh rất mực hòa giàu hòa sang.
Thức gì thức chẳng sẵn sàng,
Giàu lòng ăn ở nghênh ngang một mình.
Vả nhà lắm kẻ hiền lành,
250Tụng kinh chẳng nỡ sát sinh loài gì.
Khi vui khúc khích đầu hè,
Dẫu rằng: gia chủ chẳng hề dễ dui.
Ngẫm thân được chốn an vui,
Hiềm vì một chút số sui muộn màn.
Muốn cho vẹn nghĩa Tấn Tần,
Tìm phương phụ hậu ân cần những lo.
Đã từng xem quẻ bói rùa,
Còn toan bói hạc xem cho mới đành.
Nghe rằng Già pháp thần linh,
260Quyết lòng cầu tự đinh ninh đến chùa.
Trong nhà hắc hổ trấn phù,
Sinh con sinh cái nuôi cho dễ dàng.
Tìm thấy Biển Thước lập phương,
Mã đề, qui bản, sà sàng, lộc nhung.
Nhân sâm, liên nhục, mật ong,
Pha cao hổ cốt ban long luyện hoàn.
Bổ trong ngũ nội đã an,
Vợ chồng lục vị, thập toàn uống chung.
Trong lòng còn nghĩ chưa xong,
270Rắp tìm một kẻ thiên phòng chưa ai.
To đầu vú, cả giái tai,
Dày nơi ngư vĩ, cao nơi ngọa tàm.
Biết đâu như thế mà tìm,
Nhờ tay nguyệt lão khéo đem kết nguyền.
Hôm qua máy mắt cho liền,
Nhện sa trước mặt báo tin ngoài thềm.
Bẻ chân gà mới so xem,
Vững con, tươi cái, ngoài đun quá nồi.
Cho hay duyên kiếp bởi trời,
280Nghiệm xem báo ứng rạch ròi chẳng sai,
Hôm nay mẹ nó đi chơi,
Phỏng chừng cũng đến có đôi ba ngày.
Mà nàng lạc lối tới đây,
Vả coi hình tướng cũng tày nàng Oanh.
Khác loài tước bộ xà hành,
Lại xem phụ tưởng kiên trinh ai bì.
Muốn nên một chút nghĩa chi,
Chẳng hay nàng có khứng vì cùng chăng ?
Đưa duyên nhờ gió gác Đằng,
290Đành hay con tạo nhắc bằng đồng cân.
Sau toan Cách cựu Đỉnh tân,
Lại vầy, lại hợp cho nhuần sớm khuya.
Nọ là núi chỉ non thề,
Bất kỳ nên nghĩa tương kỳ mới hay.
Đem con sang ở bên này,
Phòng khi ấm lạnh đỡ thay cho mình.
Nơi ăn ở chốn ở chung chinh,
Chẳng lo khó nhọc cũng đành ấm no !”
Nàng nghe chàng nói nhỏ to,
300Bây giờ mới kể sự Hồ Quí Ly:
“Làm người mang tính hồ nghi,
Thấy người cốt ngạnh chẳng vì chẳng yêu.
Vẫy vùng ếch giếng tự kiêu,
Tham lam chẳng khác Lý miêu đời Đường.
Bệ rồng gác phượng tấc gang,
Quen lòng khuyển mã toan đường dong thân.
Nỡ làm đố quốc hại dân,
Những phần ích kỷ nào phần ích ai.
Rồi ra động đất chuyển trời,
310Bấy giờ có lẽ đứng ngồi làm thinh
Cá ao lệ nữa cháy thành,
Cũng nhiều cấp phải lánh mình cho hay.
Sao bằng đình chủ thiếp nay,
Ba gian oa xá tháng ngày tiêu dao.
Chẳng lo đuổi thỏ săn hươu,
Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì.
Kình nghê vui thú kình nghê,
Tép tôm thì lại vui bề tép tôm.
Xem loài bán thỏ buôn hùm,
320Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò.
Thà ăn cáy ngáy o o,
Còn hơn ngay ngáy ăn bò làm chi.
Chớ quen bán chó mua dê,
Vui cùng hạc nội ham chi gà lồng.
Sá chi chiều ấy như không,
Xác ve luống chịu tiếng trong cõi đời.
Gặp sao hay vậy, bao nài,
Cớ chi mà phải nghe ai bây giờ.
Chàng rằng: “Hãy được nương nhờ,
330Bao giờ biến cải bấy giờ sẽ hay.
Chừa khi đến nỗi cháy mày,
Vội chi mà bỏ chốn này đi đâu.
Mặc khi báo ứng nhiệm mầu,
Quý Ly dù có về sau chẳng tuyền.
Cưỡi rồng ta đã băng nguyền,
Ứng diềm hùng hủy vầy đoàn gái trai.
Chước nào ước được như lời,
Cũng đành muôn kiếp ngàn đời chẳng quên.”
Nàng rằng: “Lời dạy quá nên,
340Song trong lòng nọ đá vàng dám nguôi.
Tuy rằng nương náu ở đời,
Dường ve gầy gục, dường giơi võ vàng.
Những lo trọn đạo thờ chồng,
Chồng sao thiếp vậy, kẻo càng xấu nhau.
Hầu mong nát ngọc trầm châu,
Lầu cao chẳng quản giếng sâu chẳng từ.
Bận vì một lũ con thơ,
Mong khi cả lớn bấy giờ sẽ hay.
Ví đeo tính nước lòng mây,
350Chí còn chim Việt đỗ rày cành nam.
Mấy thu nước mắt chan cơm,
Lưng canh đĩa muối quải đơm thường lề.
Bởi phân làm thập nhị chi,
Trong kinh ghi dạy Thử bì còn gương.
Dám đâu lỗi đạo cương thường,
Nghĩa phu phụ nỡ dám đường bội vong.
Thấy câu phu xướng phụ tòng,
Ghi lời tiên thánh, dặn lòng đinh ninh.
Há còn kén cá chọn canh,
360Cơm nem đã trải tay chanh đã từng.
Ơn chàng thương kẻ lỡ chừng,
Xin đừng dạy tiếng gió trăng nữa rày.”
Nghe lời chàng mới chau mày,
Nghĩ rằng tiết ngọc khó lay được nào.
Dỗ dành không biết chước sao,
Vẫn là hờ hững làm cao với mình.
Lại bày lời khác ướm tình,
Để xem lòng gái tiết trinh kia là;
“Rày nhân bướm được gần hoa,
370Thuyền ngư ông tới doành mà chẳng nhưng.
Chàng Lưu từ sánh ả Hằng.,
Bởi chưng gặp gỡ há rằng rắp rinh.
Bạch viên xưa kết Tôn sinh,
Chẳng vì dan díu, bỏ kinh tòng quyền.
Cầm lành dù chẳng nối huyền,
Nghe trong tình ý còn nên tiếng gì.
Bá Nha đã gặp Tử Kỳ.,
Bảo sơn ai nỡ trở về tay không.”
Nghe lời chàng mới ngán xong,
380Rằng sao quân tử ra lòng sài lang.
Qui dâm. ghi lại còn gương,
Trong kinh giới sắc sao chàng chẳng răn.
Tràng khanh tư ả Văn quân,
Tống sinh dùng gái chủ nhân chẳng vì…
Chàng sao chưa tát sông mê,
Xui ai cải tiết biến nghì sao đang.
Ví lòng thiếp chẳng đá vàng,
Thời danh tiếng ấy nữa chàng về đâu ?”
Chàng nghe thấy nói gật đầu,
390Rằng: “Anh là kẻ bất cầu lợi danh.
Chớ tin bạch diện thư sinh,
Một văn luận thử. mà khinh giá này.
Xiết bao bướm lũ ong bầy,
Chẳng quen khoét vách, chẳng hay leo tường.
Dám nào thiết ngọc thâu hương,
Gìn trong danh tiết lánh đường phiền hoa.
Ví dù đem thói dâm tà,
Mày loan tóc phượng vào ra hiếm gì.
Tin chim thư cá gửi đi,
400Cũng nhiều nơi rắp nơi vì riêng tây.
Đáp tai làm mặt chẳng hay,
Những lời hoa nguyệt xưa nay chưa hề.
Thấy nàng gái ở có nghì,
So xem khác giá nữ nhi thời này.
Ước nên chút nghĩa nước mây,
Chẳng mê gì sắc bởi say vì tình,
Chúa xuân dẫu có đành hanh,
Đến vườn cũng bẻ một cành cho cam.
Rồi ra đôi ngả bắc nam,
410Dẫu lòng thu tưởng xuân tầm được chăng.
Tình xuân ví chẳng đãi đằng,
Cũng đà mang tiếng răng răng bề ngoài.
Dứt lời nàng mới giãi bày :
“Những điều mặt dạn mày dày khó coi.
Vườn xuân chàng sẵn có nơi,
Nguyệt hoa sao nỡ ép nài như ai.
Bây giờ rừng mặt vách tai,
Việc trong mới rắp kẻ ngoài đã hay.
Vầng trăng đã ngả về tây,
420Để cho thiếp trở về rày với con.
Đường trường trở cách nước non,
Lũ hài tưởng nó hãy còn thơ ngây.
Nể lời quanh quất mãi đây,
Hoặc người về đó lời này tiếng kia.
Lại càng dại dáng nga mi,
Trăm năm danh tiết xướng tùy sao đang.
Ví xem tang bộc thói thường,
Xưa nay dạ sắt gan vàng như không.”
Biết rằng nàng chẳng chuyển lòng,
430Bấy giờ chàng mới nói sòng họa may :
“Vốn người chính thất nhà này,
Trâm anh lịnh tộc xưa nay vẫn là.
Đàn bà ấy mới đàn bà,
Ngọt ngào có một, sai ngoa chưa từng.
Chìu chồng khuya sớm nỏ nang,
Phải chăng chẳng dám cạy răng một lời.
Ra vào bặt tiếng ngậm hơi,
Một mình săn sóc hôm mai nhọc nhằn.
Muốn cho được kẻ đỡ đần,
440Quan quan bảo điểu muôn phần những mong.
Chẳng như kẻ bắc người đông,
Ghen tuông vì nỗi chồng chung nồng nàn.
Cát leo cù mộc rắp toan,
Xích thằng xui khéo tạo đoan một niềm.
Được nàng làm chị làm em,
Cùng ăn, cùng ở chẳng hiềm giận chi.
Nàng rằng: “Chàng dạy thế thì,
Phụ nhân đố kỵ xưa kia còn lời,
Phương ngôn câu ví để đời,
450Nhường cơm nhường áo dễ ai nhường chồng ?
Hiếm chi trong chốn non sông,
Thiên hương quốc sắc như bông hoa đèn.
Sá chi nửa cánh hoa tàn,
Tình kia ý nọ bàn hoàn nữa chi.
Thiên cao mà lại thính ti,
Trên đầu chẳng nghĩ còn thì có ai.
Cố lòng ép trúc nài mai,
Mượn dao thiếp quyết một bài cho xong.”
Bấy giờ kinh sợ hãi hùng,
460Bát trân chàng mấy giải lòng cho qua.
Rằng: “Nàng may lại tới nhà,
Tiễn đưa một tiệc gọi là cố tri.
Dẫu rằng dưa muối chớ nề,
Còn thừa nàng phải đưa về cho con.
Gọi là của khác nước non,
Đưa ra mọi thức miếng ngon mỹ hào.
Nem lân, chả phượng, yến sào,
Đàn con chưa dễ biết bao mùi này.”
Trình rằng: “Nhà thiếp xưa nay,
470Ngày nào cũng phải như ngày thanh minh.
Vả trong cương tỉnh phong thanh,
Giang sơn một giải triều đình tri danh.
Mở mang trời cũng có mình,
Lẽ nào dám để thường tình cười chê.
Xin thôi cho thiếp trở về,
Ơn chàng non núi để thì đền sau.”
Rằng :”Bây giờ chửa thấy đâu,
Chẳng là rồi đến mai sau tích gì.
Cho hay rằng thói nữ nhi,
480Biết chăng chỉ có một bề mà thôi.”
“Chàng sao khéo nói nên lời,
Hoa kia nguyệt nọ ra người phải ru ?”
Bấy giờ trong dạ oán thù,
Lặng ngồi chàng mới nghĩ cho rạch ròi :
Như ta cứu nạn cho rồi,
Cũng nên ơn nặng muôn đời chớ sao.
Thế mà nhiều nỗi ước ao,
Thấy nào trả nghĩa thấy nào trả ân.
Khôn ngoan rất mực hồng quần,
490Tại bình mà nói dối dần cũng xuôi.
Nghĩ thương thân phận lạc loài,
Chồng con nào có biết ai hay là.
Trông người ra cách phong hoa,
Thế mà những thói dâm tà thời không.
Hay buồn lý bắc lân đông,
Cho nơi cốt cách, mà lòng chẳng yêu.
Nay ta nói đã đến điều,
Chẳng lay tiết ngọc, chẳng xiêu lòng vàng.
Tính rằng khuyên dỗ lấy nàng,
500Đỡ khi chim cá, tiện đường chung tư.
Nghĩ mình là kẻ văn thư,
Đầu đuôi nghĩ lại mà dơ dáng đời.
Thôi thì thôi cũng chịu thôi,
Kiếm đường chữa thẹn mấy lời cho qua :
“Thiềm cung bóng đã tà tà,
Khuyên rằng mau trở lại nhà với con.
Những lời ban tối nỉ non,
Thấy nàng có dạ sắt son thử tình.
Trăng hoa coi những làm thinh,
510Có trời hẳn biết cho mình mà thôi.
Ví dù đây cũng như ai,
Ép tình cá nước phải nài nẫm chi.
Nàng hay nói quái nói kỳ,
Xưa nay âm thịnh dương suy thường tình.
Khen cho một dạ kiên trinh,
Dẫu rằng nghiêng nước nghiêng thành dễ đâu.
Xin đừng để tiếng cho nhau,
Cành hoa còn giữ được màu tại ta.”
Thưa rằng: “Thân phận đàn bà,
520Trông ơn đã được khỏi qua nạn rồi.
Đức dày đành trả muôn đời,
Nghe lời thiếp phải liệu lời kêu ca.
Ơn dày trả nghĩa trăng hoa,
Lại là nghiệp chướng lại là trái duyên.
Xin chàng nghĩ lại chớ phiền,
Đừng hồ nghi nữa thiếp xin trở về.”

II. Chuột cái về, nổi ghen, rầy rà chuột đực và sinh sự với chuột bạch

Bấy giờ sắp sửa ra đi,
Vợ chàng lo lắng việc chi đã về.
Thấy chàng đưa tiễn đề huề,
530Ngâm thơ mà giải lòng quê kẻo nồng.

Thơ rằng:

“Non sông cách trở vững ba thu,
Giấc bướm mơ mồng núi vọng phu.
Khen kẻ rắp cùng gan phượng chạ,
Trách chàng toan tuốt ruột tằm khô.
Một niềm dạ sắt in vầng thỏ,
Mấy lúc lòng vàng chỉ bóng ô.
Chăn gối lẻ loi đà mấy tối,
Mà lòng đã nỡ thế kia ru !”

540Chuột bạch tức ý họa rằng:

“Danh tiết kia mà biết mấy thu,
Nghe quyên khắc khoải tiếng tư phu.
Mày ngài hoa ứ sầu khôn tả,
Má phấn châu rơi giọt chẳng khô.
Chút nghĩa đã nguyền vầng ngọc thỏ,
Tấm lòng phó mặc bóng kim ô.
Thâu đêm mang tiếng rằng kia nọ,
Dạ sắt gan vàng dễ biết ru !”

Họa thi rồi tạ lấy lòng,
550Giãi bày có cả vợ chồng cùng nghe :
“Gặp cơn sóng gió bất kỳ,
Nhờ ơn cứu vớt đêm khuya nặng tình.
Có nhà chị cũng như anh,
Người ta ai cũng lòng lành như ai.
Đè chừng bắt bóng dong dài,
Đá mòn đã vậy, miệng người thì sao ?
Xưa nay danh giá thế nào,
Vì tôi một chút ra vào cho nên.
Phải chăng chị để em xin,
560Bận lòng lo lắng giang sơn nỗi nhà.”
Bây giờ nàng đã bước ra,
Liệu điều chàng cũng giải hòa cho xuôi.
Nàng rằng: “Trong bấy nhiêu lời,
Rào sau đón trước cho ai đó mà.
Chẳng tư túi, chẳng trăng hoa,
Tội chi mà thiết việc nhà người dưng.”
Tía tai đỏ mặt bừng bừng,
Vật mình nàng lại vang lừng nói ra;
“Cớ chi thiếp mới vắng nhà,
570Đã lòng nhử nguyệt quyến hoa tơi bời.
Vừa lòng thích ý thì chơi,
Nhà này còn có xem ai ra gì,
Cửa nhà lo lắng sớm khuya,
Sướng se mạ cạn đi về xiết bao.
No cơm thì rửng hồng mao,
Dục hà dục hĩ muốn sao thì làm.
Ai ngờ mặt sứa gan hầm,
Rắn toan gà luộc rượu tăm thỏa lòng.
Khác nào như nhện đánh vòng,
580Ếch kia trong giếng còn mong kẻ dò.
Đói thì đầu gối biết bò,
No cơm ấm cật còn lo lắng gì.
Chẳng thương đến nỗi thê nhi,
Tìm mồi khuya sớm đã đi đỡ chàng.
Trở về vừa đến đầu tường,
Thấy con muông đứng cửa hang nó rình.
Đã lâu nghe vắng phong thanh,
Ngậm hơi như thóc đem mình về đây.
Lại e lũ khỉ buông dây (?),
590Đến nhà nên nỗi nước này mà thương.”
Ghen tuông nhiều tiếng dở dương,
Chàng van như cốc, bày tường đầu đuôi.
“Canh khuya chưa nhắp còn ngồi,
Lạ vì vắng vẻ thức coi cửa nhà.
Bỗng nghe ngoài chốn tường hoa,
Tiếng con muông sủa từ xa lại gần.
Chút vì nàng mới lỡ chân,
Hoặc khi muôn một trở ngăn dường nào.
Song nga chưa biết làm sao,
600Bồi hồi gan vượn xôn xao khúc tầm.
Thập thò hầu rắp ra thăm,
Thấy nàng Bạch thử đâm sầm vào hang.
Dữ lành hai lẽ chưa tường,
Giắt tay đã bảo có đường tìm ra,
Nói rằng trong nghĩa lân gia,
Phải con muông đuổi thế sa đường cùng.
Một mình thân gái long đong,
Dám xin cứu nạn ơn lòng chẳng quên.
Một làm phúc hai làm duyên,
610Chẳng nề cho ở một bên hẹp gì.
Vừa ngồi một chốc lại đi,
Há rằng có ý tứ gì cùng ai.
Cớ sao gieo nặng những lời,
Nghe ra chẳng chút vào tai cũng phiền!”
Nàng rằng sự đã quả nhiên,
Nào ai nói đặt cho nên đoạn trường,
Vợ con vừa bước ra đường.
Ở nhà thắc mắc lo lường đứng trông.
Phỏng rằng cậy dạ cậy lòng,
620Thế thì dỗ gái về phòng làm chi ?
Ngửa nghiêng như ốc biết gì,
Bặt ngay tăn hẳn dường dê mắc sừng.
Thôi thôi chẳng lọ nói năng,
Dấu voi ruộng rạ nghĩ rằng kín thay.
Hang hầm ai dám móc tay,
Chuột nào lại dám cắn dây buộc mèo.
Ắt là toan rắp thế nào,
Không dưng ai có bỗng theo về nhà.
Ruồi kia một phút bay qua,
630Biết là đực cái lọ là sự ai.
Ở trong chưa tỏ bằng ngoài,
Dễ mà ăn cáy bưng tai được nào.
Mê say chìm đắm má đào,
Như mèo thấy mỡ khát khao thật là.
Già chẳng thương, trẻ chẳng tha,
Khác nào như ếch thấy hoa thì vồ.
Thuồng luồng ở cạn có ru,
Mà toan bắt chước đứa ngu sờ sờ.
Chiếu chăn nào có hững hờ,
640Mà như voi đói thì vơ dông dài.
Quen mùi bận khác ăn chơi,
Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu.
Bấy giờ khốn đổ cho nhau,
Miệng kênh gọi chó, tay mau đuổi ruồi.
Ví dù lầm phải vợ ai,
Giòng sông bè chuối mới hay cho đời.
Sáng tai họ, điếc tai cày,
Mà lòng lại tưởng đến người đào thơ.
Những mong lại có bao giờ,
650Cho khuây khỏa dạ kẻo mơ mẩn tình.
Ví không duyên nợ ba sinh,
Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây ?
Nghĩ càng như tỉnh như say,
Mặt như đầu lợn nhìn thầy trơ trơ.
Nàng ngờ phải thuốc phải bùa,
Ve sầu xác rũ nó cho ăn quàng.
Cho nên thơ thẩn võ vàng,
Tìm lươn cho kíp cháo thang giã giùng.
Kẻo lòng tơ tưởng mơ mòng,
660Khỏi hồn Thục đế, khỏi lòng Đỗ quyên
Bấy giờ tính nết đã quen,
Chắc rằng cua lỗ khó lên trên trời.
Nàng rằng bắt chạch đằng đuôi,
Kiện vô chứng cớ khôn đời đôi co.
Nguyên viết hữu, bị viết vô,
Minh đơn so với duyên do thế nào.
Nó thời nhất hướng tại đào,
Đi lên rừng biết đường nào truy đương.
Vô tang tích tịch tình tang,
670Khôn làm lý đoán cho tường được đâu.
Rầm nhà tiếng hỏi lao xao,
Ai hay rằng sự dấu đầu hở đuôi.
Vẫn còn thèm thịt thèm xôi,
Ngày thường cơm tẻ thiếp nuôi lệ gì.
Có cãi rằng quí dịch thê,
Gái này chẳng dám nằn nì thương yêu.
Già rồi lận cận bỏ liều,
Sá chi vú sếch lưng eo sồ sề.
Chẳng ưa cà chín bầu già,
680Tuổi đà dư lạp lịch đà quá niên.
Có trăng nên nỗi phụ đèn,
Chẳng ngon thể sốt, thời liền bến hơi.
Cười ra nước mắt hổ ngươi,
Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa:
Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
Thế tình chuộng lạ tham thanh,
Thân tiên thân cú ra tình xấu chơi.
Cầu nôm đồng thủng lạ đời,
690Kẻo còn nhọc xác mệt người xông pha.
Cắn đuôi tha trứng gần xa,
Cái thân tất tả như bà đánh ong.
Dạ tràng xe cát luống công,
Tò vò nuôi nhện há mong cậy nhờ.
Ít lời chẳng muốn nói ra,
Những điều chàng ở ắt là chẳng quên.
Chèn nhau từng cạnh cho nên,
Trong bàn đã phỗng tay trên nực cười.
Tổ tôm kia thực là tài,
700Cửu vạn bát sách chờ hoài bán chi.
Âm dương bác cục được thì,
Cứ chi đứng hậu cứ chi lối lè.”
Chàng rằng: “Lời nói cũng kỳ,
Kể khoan kể nhặt thói quê thường tình.
Tiếng chua hơn nữa vắt chanh,
Toan đường tầm ngải lấn cành được sao ?
Ta đây dễ nạt được nào,
Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ roi.
Cũng toan níu náu cho rồi,
710Càng ngày càng một tỏ coi những màu.
Cắm đầu mà chịu vuốt râu,
Đã căm như ngựa cầm tàu mấy phen.
Giống lừa ưa nặng đã quen,
Thôi đừng dức lác huyên thiên tít mù.”
Bấy giờ nàng lại tri hô,
Sắn quần sắn áo thập thò cửa hang.
Rằng: “Đà mang tiếng tào khang,
Những nhờ rễ mận rễ bàng cùng nhau.
Bây giờ nên nỗi cơ cầu,
720Bà làm cho tỏ ra đầu ra đuôi.”
Miệng thời thở ngắn thở dài,
Tìm đường thăm lối kíp dời lân đông.
Cửa hang chuột bạch tới gần,
Đã phần sỉ vả lại phần mỉa mai.
Chuột bạch đỏ mặt tía tai,
Hỏi rằng: “Ai đấy mắng ai chốn này.
Con này chưa biết bà đây,
Lại toan tiếng nọ lời này đành hanh.”
Con mèo thủng thỉnh góc thành,
730Đến xem tranh đấu ra tình làm sao.
Hai bên hồn lạc phách xiêu,
Trèo non nhảy núi ra chiều lao đao.
Lạ đường chuột cái sa ao,
Thực là báo ứng trời nào có xa.
Bạch thời chạy được về nhà,
Bước qua cống gạo liền xa mình vào.

III. Hồ sinh cứu vớt và khuyên nhủ chuột cái

Ngẫm xem báo ứng kíp sao,
Hồ sinh đứng nấp tường đào thử trông.
Thấy con chuột cái vẫy vùng,
740Trên bờ mèo chực, những mong ra chào.
Hồ dơ tay mới đuổi mèo,
Vén quần lội xuống cán bèo vớt lên.
Ráo lông tỉnh lại vừa an,
Cúi đầu mà lạy khoan khoan trình bày :
“Thiếp nay là phận thơ ngây,
Phải chồng ruồng rẫy tới đây gặp nàn.
Ơn ông cứu được thân tàn,
Thửa công đức ấy muôn vàn xiết đâu.
Nhờ ông lượng bể cao sâu,
750Hẳn cơ tạo hóa quên đâu kẻ hiền.”
Sinh rằng: “Những tính hay ghen,
Hễ là già néo ắt liền đứt giây.
Rõ ràng kể nói cho hay,
Ban khuya chuột bạch tới đây tìm mồi.
Phải con muông đuổi một thôi,
Vào hang này ẩn, an rồi lại ra.
Lạ gì gái đẹp đến nhà,
Chồng mầy cũng muốn lân la với tình.
Song le phải gái kiên trinh,
760Ra chiều khôn lẽ dỗ dành lại thôi.
Ngươi về chưa tỏ đầu đuôi,
Máu ghen nghếm ngẩm nói lời éo le.
Dẫu rằng đức Phật từ bi,
Ắt là cũng giận huống gì chồng ngươi.
Há rằng việc ấy bởi ai,
Mình làm mình chịu, trách người sao nên.
Tính hay bạo hổ đã quen,
Dám tìm chuột bạch đánh ghen tại nhà.
Lại làm xấu bọn đàn bà,
770Oan lòng tiết phụ nghĩ đà phải chưa.”
Nàng vâng nghe biết sau xưa,
Rằng ơn ông dạy bây giờ mới hay.
Mấy lời nghĩ lại hổ thay,
Trăng kia đã khuyết khôn xoay được tròn.
Trót đà cả giận mất khôn,
Bây giờ cắn rốn lại còn được ru.”
Liệu lời Sinh mới dạy cho,
Lấy đường khuyên giải điển mô mọi lời.
“Việc này cơn cớ vì ngươi,
780Liệu về nói dỗ chồng nguôi thì là.
Muốn cho yên cửa yên nhà,
Chẳng gì hơn ở thuận hòa cùng nhau.
Dễ ai đội áo qua đầu,
Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tày.
Ái ân là nghĩa nặng thay,
Vợ chồng há phải một ngày rồi quên.
Ở đời vô sự là tiên,
Mà đều yên đẹp hơn bên cục cằn.
Trót đà cùng chiếu cùng chăn,
790Lẽ nào con nhện mấy lần vương tơ.
Tính sao như thể nước cờ,
Nghĩ cho một phải hai vừa thì thôi.
Chớ toan những sự tranh phôi,
Bới bèo ra bọ, tanh hôi cửa nhà.
Đàn bà như hạt mưa sa,
Gặp sao hay vậy biết là đâu hơn.
Dẫu chồng trăm giận nghìn hờn,
Cũng nên bấm bụng van lơn dỗ dành.
Một câu nhịn, chín câu lành,
800Chớ hề tật đố cậy mình cậy công.
Mới là phải đạo xướng tòng,
Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon,
Rang rang thôi hết khéo khôn đàn bà.
Mèo lành ở mả đâu là,
Của yêu đâu có bày ra ở ngoài.
Thôi đừng đua sức thi hơi,
Há rằng ba chốn bốn nơi được nào.
Tránh voi xấu mặt hay sao,
810Hãy xem sứa vượt được nào qua đăng.
Làm chi mặt vượt, mặt lăng,
Dứt dây chẳng sợ động rừng kia ru.
Thi bơi với giải thời thua,
Đàn bà đâu có tranh đua cho đành.
Kíp toan cải dữ làm lành,
Ắt là sum họp yến anh một nhà.
Dịu dàng phải phép đàn bà,
Chẳng thời chua xót lệ sa ròng ròng.”
Nàng vâng lời dạy ghi lòng,
820Trở về van lạy cùng chồng dám sai.
Hồ sinh về chốn thư trai
Giở nghiên bút mới ghi lời kẻo quên.
Nào ngờ vị vật chính chuyên,
Rằng: chê rằng cũng nên khen lệ gì.
Cũng hay trinh tiết giữ nghì,
Vật còn dường ấy huống chi là người.
Ai hay đen bạc biến dời,
Tuy người chẳng biết nhưng trời đã hay.
Những người mặt dạn mày dày,
830So xem ắt cũng chẳng tày muông dê.
Như lòng chuột đực khá chê,
Toan đường quyến rũ dạ mê đạo lành.
ấy là chuột bạch chí thành,
Ví dù nó chẳng tiết trinh ra gì.
Thấy chưng quả phụ nhân nghì,
Chẳng khuyên đường chính mà mê thói tà.
Vậy nên eo óc cửa nhà,
Chẳng nhưng chỉ trách đàn bà ngon ghen.
Khá khen chuột bạch trinh kiên,
840Trăng hoa chẳng tưởng, giữ gìn tấm son.
Dẫu rằng đá lở non mòn,
Tấm lòng tạc sắt ghi son chẳng dời.
Gặp cơn nhầm chốn sa vời,
Chẳng tham chìu đãi nghe lời bướm ong.
Mặc ai cợt diễu thử lòng,
Gan vàng chẳng chuyển chẳng long chút nào.
Đương cơn gặp bước lao đao,
Thế mà vẫn được ra vào ấm no.
Khá chê chuột cái dại rồ,
850Chồng đi hoa nguyệt chẳng cho được nào.
Phải điều khuyên dỗ thấp cao,
Cớ chi đè nén sông giao cậy mình.
Làm trai ba bảy mới sinh,
Tài nào mà giữ một mình được ru !
Cả ghen nên nỗi cay chua,
Chồng ruồng rẫy, phải sa hồ càng thương.
Người xưa câu ví còn gương,
Đàn bà cả tiếng, tan hoang cửa nhà,
Sự này dù thực dù ngoa,
860Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Xét xem giống vật cho tinh,
Mà cơ báo ứng rành rành chẳng sai.
Huống chi là đấng làm người,
Thửa lòng cho chính nào trời phụ ai.
Tóc tơ một chút chẳng sai,
Vậy nên làm chuyện đặt vài lời hoa.
Khi rồi, ai muốn ngâm nga,
Gọi là theo thói nôm na dõi truyền.

Bình luận về bài viết này

Xem thêm Truyện Tàu tại

quyensach.blogspot.com

thudoquan.blogspot.com

sites.google.com/site/thudoquan

textviet.wordpress.com